Trước cảnh nầy, lòng tôi càng động dữ dội  hơn nữa.Vì chính giờ phút nầy, tôi “tự thấy”có trách nhiệm với con tàu  nầy,với sinh mệnh của những con người cùng theo.... 
             Đứng thẳng người trước mũi tàu, hít thật  sâu mấy hơi để tiếp thêm thần lực vào người hầu xua đuổi sự sợ hãi. Tôi quay đầu  về trong đất liền thầm cầu xin đất nước, tổ tiên, ông bà phù hộ cho chúng tôi  được an lành trên biển cả,vì bất đắc dĩ phải bỏ nước ra đi.Tôi quây mình hướng  về phía Mã Lai, cầu xin Phật Bà Quán thế Âm Bồ-Tát, cứu khổ, cứu nạn ban cho  chúng tôi sự bình yên trên biển trong cuộc hải trình đầy cam go, nguy hiểm chưa  biết số phận sẽ ra sao?!..
              Con tàu vặn mình, chao lắc rướn về phía  trước. Chúng tôi đánh đu mạng sống của mình qua con tàu nầy. Hai tiếng đồng hồ  trôi qua. Tôi không biết điểm đứng của mình trên biển, vì tàu không có hải đồ để  xác định tọa độ. Tôi không dám cho tàu nhảy sóng, vì chạy như vậy tàu sẽ bị sóng  đánh bể mũi, chỉ lấy độ dạt, cho sóng đánh qua hông và từ từ lấy phương giác trở  lại. Đến chiều, xem chừng tàu đã ra đến hải phận.
              Nhìn đống vũ khí chưa có người xữ  dụng.Tôi lớn tiếng hỏi trên tàu:
             -Có ai quân nhân, xin nhận vũ khí để cùng  nhau chống trả khi có cướp biển tấn công? 
             Không có tiếng đáp trả. Tôi đành nhắm các  thanh niên trẻ nhanh nhẹn để phát vũ khí cho họ. Hai cây AK.47, hai cây M16 đàng  mũi tàu. Hai cây AK.47,hai cây M.16 đàng sau lái.Còn cây M.79 tôi giữ quàng qua  vai. Tôi chỉ cho họ cách xử dụng và chiến đấu khi hữu sự rồi dặn: 
             - Giấu vũ khí dưới sàn tàu, chỉ bắn khi có  lệnh của tôi. Bắn khi mục tiêu tiếp cận chúng ta 50m mới chính xác. Bắn từng  viên một, không được bắn cả tràng, chúng ta cần phải tiết kiệm đạn. 
             Tôi nhìn quanh rồi nói tiếp:
             - Theo kinh nghiệm, một khi tàu cướp bị ta  chống trả, chúng sẽ kêu đồng bọn đến tiếp cứu. Ta còn phải chiến đấu nhiều lần.  Đường đi còn xa còn vô định, hiểm nguy còn rình rập theo ta từng giây từng phút.  Cần đề cao cảnh giác. Ai đứng đầu mũi, bắn vào mũi tàu của bọn cướp, ai đứng sau  đuôi tàu bắn theo đằng đuôi,không bắn loạn xạ. Phần cabine (buồng lái) đã có  M.79 của tôi trị chúng. Với quả đạn nầy chắc rằng bọn cướp sẽ đền tội, hết quấy  rầy chúng ta.!
              Riêng phần thực phẩm trên tàu, tôi không  biết đã có những gì. Nhưng tôi cũng nói luôn:
             -Thực phẩm nầy là của chung. Cùng sống  cùng chết có nhau. Không một ai được quyền lấy làm của riêng. Đến giờ ăn được  cấp phát, nước uống cũng vậy. Nếu ai vi phạm sẽ bị kỷ luật. Tôi tạm dùng luật  quân đội trong lúc nầy để chỉ huy.
              Tôi đề cử người canh giữ cẩn thận. Đến  giờ nầy tôi cũng thông báo cho mọi người biết:
             -Tôi là một “hoa tiêu” bất đắc dĩ,  bị tổ chức vượt biên gạt dẫn tàu đi. Tôi cũng phải trả tiền như mọi người. Do đó  chúng ta phải hợp tác với nhau để sống còn. Mọi người nhìn tôi ái ngại, họ lo  cho tôi và chính cho họ nữa!
              Màng đêm buông xuống trên biển thật hãi  hùng! Tầm nhìn xa không quá 5 mét. Đèn soi hướng trong hải bàn không hoạt động.  Phải dùng đèn bấm từng chặp soi để định hướng. Sao đêm lờ mờ lấp lánh vút trên  trời cao, không hiện một chùm nào rõ ràng hầu nhờ đó dể tìm lối đi. Sóng đập vào  mạng tàu mỗi lúc một dữ dội hơn, gió cũng hùa theo gieo sợ hãi không ít. Đã xảy  ra những vụ đụng tàu trên biển trong đêm đen như đêm nay, thảm cảnh đụng tàu có  thể xảy ra bất cứ lúc nào không ai có thể lường trước được! Chỉ còn phó thác cho  mười phương chư Phật cứu độ và rủi may nữa mà thôi!
              Qua một đêm đáng nhớ để đời.
             Bình minh hé rạng ở phương Đông. Ai nấy  đều thẩn thờ, phờ phạc sau đêm vượt biển hãi hùng. Tàu vẫn ngoan ngoãn lướt tới,  ít nhất trong lúc nầy. Thanh niên thay nhau tát nước. Một phòng vệ sinh dã chiến  được thiết lập ngay giữa boong tàu, ai có nhu cầu thì phải có người quen giúp  cầm miếng vải bao quanh người ngồi trong “xô”, xong đổ xuống biển. Cách  nầy an toàn hơn là ngồi sau lái dễ bị sóng nhồi rớt xuống biển. Điểm tâm được  hiểu ngầm là không có, chỉ có trưa và tối. Khẩu phần “gói mì ăn liền và 1 ly  nước nhỏ” cho mọi người, ăn để cầm hơi, có người phát trật tự.
              Tàu vẫn rướn mình về hướng 240 độ  Đông-Nam Mã-Lai được hai ngày an toàn, mặc dầu không biết điểm đứng của mình.  Đến ngày thứ ba thì có vấn đề. Bánh lái trục trặc chân vịt quay chậm cần phải  sửa. Không ai hơn là “vị” tài công bất đắc dĩ phải nhảy xuống biển để thi  thố tài năng. Tôi phải gìm súng bảo vệ, vì sợ cá mập bu đến xơi tái ông ta. Thật  may mắn sau mấy giờ sửa chửa tàu lấy trớn chạy lại. Ai nấy hú hồn! Chỉ một gói  mì và ly nước lạnh lớn để thưởng công ông ta!
              Đến chiều, tôi bỗng thấy từ xa một chấm  đen xuất hiện. Lệnh báo động được ban ra, tất cả thanh niên đã có nhiệm vụ chiến  đấu phải sẳn sàng súng đạn. Có thể bọn cướp Thái-Lan đã đánh hơi được nên chúng  tìm đến, cũng có thể một thương thuyền đang hải hành trên đại dương, nhưng dù  tình huống nào chúng tôi cũng phải cảnh giác. Điểm đen càng hiện rõ dần, vì nằm  trên hải lộ tàu tôi đi qua. 
             Từ xa nhìn qua ống dòm. Đây quả là một tàu  đánh cá không biết của nước nào. Mã-Lai hay Thái-Lan? Tàu nước nào cũng nguy  hiểm như nhau, bao vụ cướp biển xảy ra đều mang tính cường bạo dã man không thua  kém nhau chút nào.
              Tiếp cận hơn, kinh nghiệm cho thấy: Tàu  nầy không có khói thoát ra đằng đuôi, chứng tỏ tàu không di chuyển. Tôi cho tàu  mình băng qua trong tư thế sẵn sàng đánh trả. Rất may mọi việc êm xuôi. Thở phào  nhẹ nhõmm quăng sự căng thẳng xuống biển, dồn lực cho phiá trước.
              Màn đêm lại bao phủ đại dương. Đêm nay  trời đầy sao sáng, các chòm sao: Nam Tào, Bắc Đẩu, Đại Hùng Tinh, Tiểu Hùng  Tinh, sao Đêm, sao Mai, đều có mặt như dự đại hội của thiên đình... Tiện thể tất  cả như nhìn xuống xem con tàu bé nhỏ của tôi xem nó sẽ trôi dạt về  đâu?
              Nương theo ánh sao của Nam Tào dẫn đường,  tàu tôi đi được khá xa,mặc dù phải chống chỏi với sóng gió nhồi lắc hãi hùng  suốt đêm.
              Bình minh của ngày thứ ba ló dạng.  
             Quả cầu lửa từ từ nhô lên khỏi mặt  nưóc.Vừng thái dương chiếu rực rỡ ở phương Đông mang theo thật nhiều hy vọng, vì  biết rằng tàu đã ra khỏi hải phận Việt-Nam thoát khỏi sự rượt đuổi của tàu  Công-an Việt-cộng phía sau.
              Một điều lạ lùng là: sau ba ngày đêm, ôm  lấy hải bàn để giữ đúng hướng đi chưa một lần tôi bị say sóng. Đói lã người  nhưng không thấy mệt, một phần nhờ gió biển tươi mát tiếp sức. Khác với lần  trước, năm 1985 khi tàu vừa ra đến cửa sông Cần-Giờ tôi đã bị sóng quật nằm vùi,  nếu chẳng may cảnh đó xảy ra cho tôi lúc nầy thì tàu sẽ đi về đâu? Tôi thầm cám  ơn Phật Bà Quan-Âm và “Cô Nam-Hải” (vị Thần cứu nạn ngoài biển- có đền  thờ ở Long-Hải Việt-Nam) đã đưa đẩy con tàu của tôi đi được ba ngày hải trình  thuận buồm xuôi gió...
              Nắng đã lên cao trên đỉnh đầu.  
             Từng đàn cá voi xuất hiện vờn lượn quanh  tàu. Nỗi kinh hoàng của tôi là sợ chúng đâm thẳng vào tàu, tàu sẽ tan xác, vì  chúng lượn với tốc độ nhanh khủng khiếp, nhưng thật tài tình cả đàn mấy chục con  lách mình trước mũi tàu như tia chớp, biến mất vào lòng biển. Vài phút sau lại  kéo đến như đùa giỡn với chúng tôi, tạo một cảm giác thích thú nhẹ nhàng giúp êm  dịu phần nào nỗi lo âu căng thẳng trong mấy ngày qua. Kinh nghiệm cho biết, gặp  được cá voi là điềm lành! Cá voi thường cứu người lâm nạn ngoài biển nên dân  chài lưới thường gọi “Ông”để tỏ lòng tôn kính. Khi gặp được cá voi bị  chết tấp vào bờ, làng chài phải làm ma chay chôn cất, đội khăn tang với tất cả  lòng thành tâm khi “Ông Lụy”. Thuở nhỏ vì ở vùng biển nên tôi thường được  xem cảnh nầy.Vui đáo để.!
              Nước biển xanh màu ngọc bích,chỉ dấu độ  sâu của lòng biển đáng kể. Tàu chở khảm, có thể bỏ chân ra rửa. Chưa biết số  người trên tàu bao nhiêu. Lương thực theo báo cáo đã cạn dần. Mối lo tăng cao  như triều dâng. Đích đến còn mịt mờ phía trước, vì không có hải đồ nên không  biết điểm đứng nơi nào trên đại dương. Chỉ còn vật duy nhất giúp chúng tôi trong  mấy ngày qua là chiếc hải bàn. Theo hướng 240 độ từ Cà-Mau đến Mã-Lai mà tôi đã  thuộc nằm lòng trong những ngày bôn ba khắp các miền để tìm đường vượt  thoát.
              Thỉnh thoảng, tôi phải chuyển đổi những  người kiệt sức vì say sóng lên nằm trên boong để họ hít thở khí trời. Không thể  cho lên nhiều được vì phải giữ lòng tàu cân bằng, để tránh bị lật vì trên nặng  dưới nhẹ.
              Tàu lại lầm lũi băng mình vào bóng đêm.  Đêm về là nỗi kinh hoàng cho tôi vì tầm nhìn hạn chế. Trước mắt không thể thấy  xa hơn 5m.Với khoảng cách ngắn ngủi nầy làm sao tránh thoát sự va chạm nếu có.  Xem như có mắt vẫn như mù. Phó thác cho ơn trên cao cả chở che!
             Từ xa tôi bỗng thấy một vừng sáng hồng  xuất hiện. Quái lạ! Giữa đêm đen như thế nầy vật chiếu sáng ấy là hiện tượng gì?  Tôi tự hỏi? Tàu tôi vẫn cứ tiến dần đến. Vùng ánh sáng càng hiện rõ hơn tõa rộng  cả chân trời. Cho đến gần sáng tôi mới nhận ra, đó là một giàn khoang dầu nằm  ngoài khơi thuộc lãnh hải của nước nào tôi chưa biết. Mừng quá tôi quyết định  cho tàu hướng đến vì đây là chiếc phao cứu sống của tàu, sau mấy ngày lênh đênh  trên biển. Từ xa nhìn vào, giàn khoang như hòn đảo sừng sững giữa  biển.!
              Trước năm 1975 tôi đã từng nghe nói đến  các mỹ danh: Giàn khoang hai cây dừa, giàn khoang bông hồng số 9 ở ngoài vùng  biển của Việt-Nam v.v... nhưng chưa tận mắt nhìn thấy, bây giờ là cơ hội cho tôi  được tiếp cận và sờ mó đến nó.
              Tôi đứng trên cabine tàu, cởi áo thun  trắng, xé làm hai mảnh, cầm hai tay làm dấu hiệu truyền tin cấp cứu S.0.S,trong  khi tàu vẫn tiến vào giàn khoang. Qua ống dòm. Quái lạ.Trên giàn khoang không có  một bóng người nào xuất hiện.Tôi tự hỏi, giàn khoang bị trôi dạt trên biển chăng  hay giàn khoang vô chủ, bị bỏ hoang lâu ngày, thậm chí có thể là một giàn khoang  “Ma”. Con tàu “Ma”. Tiếng kêu thảng thốt của các oan hồn  “Ma” trôi trên biển mà có lần tôi đã chứng kiến và gặp phải vào năm 1985  khi tàu của tôi gặp nạn trôi trên vùng biển Trường Long-Hoà Trà-Vinh. Hy vọng  tàu tôi may mắn hơn trong tình cảnh nầy! Dù nghĩ ngợi hoang mang trong đầu,  nhưng tôi vẫn cho tàu đến cập sát để tạm nghỉ giây lát sau một đêm hải trình đầy  căng thẳng.
              Bất ngờ! Trên nóc cao của giàn khoang có  tiếng người gọi vọng xuống nói những gì mà tôi không nghe được vì gió bạt mất âm  thanh. Ngước nhìn lên, tôi thấy lố nhố ngưòi rất đông,vịn hành lang nhìn xuống.  Có cánh tay vẫy tôi lên. Cột tàu vào trụ giàn khoang.Tôi lần mò bám bật thang  leo lên, tưởng như đang leo trụ điện cao thế giữa trời, rất dễ buông tay rớt  xuống lúc nào không hay, vì đã mấy ngày ngất ngây với sóng nước, nay thì chơi  vơi giữa lưng trời. Gió thổi mạnh, lạnh buốt thấu xương. Tôi cắn răng chịu đựng,  ôm từng bật thang bò lên. Khi đến bật thang trên cùng. Tôi cảm thấy có mấy bàn  tay níu lấy tôi kéo vào sàn. Quá kinh hoàng, và quá mệt, tôi nằm ngất lịm. Bên  tai tôi nghe những tiếng nói lao xao, rồi có người đỡ tôi dậy, cho uống một ly  trà nóng pha đường, tỉnh người. Sau đó được dìu qua văn phòng hỏi  chuyện.
              Đầu tiên tôi được biết đây là giàn khoang  dầu của hảng Esso Mỹ đang hoạt động ngoài khơi của Malaysia (tôi mừng thầm trong  bụng là mình đã đến được Mã-Lai). Người đầu tiên tôi được tiếp xúc là một người   to con như một cái tủ lạnh, mặt lạnh như tiền. Ông ta không nói chuyện trực tiếp  với tôi mà phải qua trung gian một người khác. Mặc dù ông nói tiếng Anh. Qua  người đó ông hỏi tôi cần gì? Tôi trả lời:
              -Xin ông cứu vớt tàu chúng tôi..  
             Ông bảo:
             -Đã nghe các trại tỵ nạn vùng ĐNA có lệnh  đóng cửa chưa? Tôi trả lời:
             -Đã nghe.
             -Nghe rồi sao còn đi?
             Tôi nói:
             - Vì không thể ở với CS được nên phải  đi.
             Ông ta nói là Ông ta rất tiếc không thể  vớt chúng tôi được. Nghe đến đây tôi cảm thấy choáng váng, thất vọng, vì gặp  phải cái “phao” xì hơi, vậy mà mà vẫn tìm đến với lòng tràn đầy  hy-vọng!
              Thấy không thể thuyết phục được. Tôi bèn  chuyển qua hướng khác.Tôi xin sự giúp đỡ của ông. Ông ta hỏi tôi cần gì?  
             Tôi năn nỉ:
             -Xin được cung cấp thực phẩm, nước uống,  dầu... đủ để đến Mã-lai. 
             Ông đồng ý ngay không do dự. Thế là một  vòi bôm dầu, một vòi bôm nước được thòng xuống tàu làm công việc “nhân đạo”  đó!
              Tôi ngỏ lời cám ơn và hỏi câu hỏi  cuối:
              - Xin cho biết thời tiết của vùng nầy ra  sao? Tiếng đáp lạnh lùng: 
              -Không biết.
             Tôi không tin như vậy.Vì họ đang sống giữa  trời nước bao la, lại sẵn phương tiện tối tân trong tay mà bảo không biết. Quả  là dối gạt! Quay ra cầu thang bò xuống tàu mình. Bỗng một tiếng kêu giật  lùi.
              -Hãy chờ! 
             Tôi dừng lại. Một người quàng qua bụng tôi  một dây nịt to bảng (loại dành cho công nhân leo trèo) và móc vào sau lưng một  dây cáp (cable) kéo từ trục quay nâng, bốc hàng.Tôi hỏi người phụ  trách;
             -Các ông làm gì tôi đây? Người kia  đáp:
             -Safety-Safety. ! (an toàn-an toàn!).  
             Nhìn lại tôi giờ nầy.Chả khác nào con  chuồn chuồn mà ngày còn nhỏ đùa nghịch bắt nó, lấy chỉ cột ngang hông đầu mối  dây kia cột vào thanh tre mỏng rồi quay cho nó bay, thích thú với trò đùa nghịch  nầy. Bây giờ tôi phải trả nghiệp báo như con chuồn chuồn! (Tạo nghiệp, phải trả  nghiệp! Theo luật nhân quả cuả đạo Phật). Nhìn từ giàn khoang xuống tàu mình.  Tôi ái ngại cho thân phận quá bé bỏng của “cái gọi là con tàu”! Nó không  lớn hơn mặt bàn 12 chỗ  ngồi. Bò từ từ xuống từng nấc thang, tay tôi có phần mất  tự chủ vì ngộp với độ cao từ trên nhìn xuống! May thay! Quanh tôi đã có dây an  toàn đeo vào người. Nếu không có bùa hộ mạng nầy. Tôi sẽ rớt tỏm xuống biển dễ  dàng, vì quá lạnh, và vì quá sợ!
             Rời trụ giàn khoang. Tàu có phần  “khảm” vì đã được tiếp tế. Sóng mạnh hơn, gió căng hơn nguy hiểm rình rập  từng phút từng giây trước mắt. Mọi người trên giàn khoang nhìn theo đầy ái ngại  vì con tàu của tôi đang đong đưa số mạng mong manh trên biển! Hai chiếc tàu đánh  cá của ngư dân Mã-Lai cột tàu núp sóng, thấy tàu tôi ra đi họ cũng đi theo  khoảng xa 50 mét. Họ đưa tay ra dấu: Có nhẩn vàng đưa, họ sẽ kéo. Tôi báo cho  mọi người trên tàu biết, nhưng không ai hưởng ứng (có lẽ vàng giấu hơi  kỹ).!
              Đến 5 giờ chiều.
             Từ xa, trên vòm trời bỗng có hai chấm đen  xuất hiện. Thoáng chốc, hai chiếc máy bay loại chiến đấu skyrader xé gió lao vào  hướng tàu tôi. Tôi không biết chuyện gì sẽ xảy ra? Tại sao lại có máy bay chiến  đấu bay đâm trực chỉ vào hướng tàu tôi vào lúc nầy?Ai biết được sau tiếng gầm rú  vang trời ấy, nó ẩn chứa những âm mưu gì? Tôi chỉ biết chuẩn bị tinh thần để đón  nhận “tặng phẩm” từ chúng ban cho. Có thể một tràng súng đại liên hoặc  một quả bom nặng ký để: “một lần thôi, vĩnh viễn chào nhau”. Tôi  hiểu rằng giờ nầy tàu tôi đang xâm nhập trái phép vào hải phận của quốc-gia  Mã-Lai, đáng tội nhận chịu sự trừng phạt đó!
              Thế nhưng, khác với những gì tôi nghĩ  quẩn trong đầu vì khủng hoảng và tuyệt vọng. Hai chiếc máy bay(có lẽ được giàn  khoang báo) lượn quanh tàu hai vòng như tỏ dấu đón chào rồi bay mất hút về hướng  240 độ (hướng tôi phải đến). Một ngụ ý chỉ hướng cho tàu đi. Cả tàu lên tinh  thần, vẫy tay chào theo trước nghĩa cử đẹp của hai chiếc chiến đấu cơ  đó.
              Nhưng niềm hy-vọng chỉ lóe sáng trong  giây lác rồi phụt tắt. Nhìn từ xa tôi thấy từng cuộn mây đen phủ kín một góc  trời, báo hiệu điềm chẳng lành sắp xảy đến. Chắc chắn sẽ có bão! Đúng vậy, đến 1  giờ đêm gió bắt đầu thổi mạnh, hất tung những gì trên sàn tàu xuống biển. Tôi  bảo mọi người rút hết xuống hầm. Đậy nắp,tránh bão. Sấm chớp nổ vang trời, những  tia chớp cực mạnh tưởng chừng như xé tàu tôi thành từng mãnh. Sóng đập vào mạn  tàu như trống đánh liên hồi nghe thật khủng khiếp. Mưa tuôn như thác đổ. Tàu  chao lắc, hất tung người từ thành bên nầy bật qua bên kia, không chút thương  xót! Tôi ôm chặt hải bàn trong người, không để mất nó, vì nhờ nó mà tàu tôi mới  tìm được hướng đến đây. Lòng thầm niệm Phật Bà Quán Thế Âm để xin Ngài cứu độ  trong cơn nguy khốn.Tôi xin Ngài cho chúng tôi sống. Vì chúng tôi đã vượt qua  chặn đường 4 ngày, bốn đêm gian nan. Chỉ còn giây phút cuối của cuộc hành trình  nữa mà thôi. Nguyện xin cứu độ! Nguyện xin cứu độ!
             Như cảm kích lời cầu xin đầy thống thiết  của tôi. Dấu hiệu an lành đến. Gió đã chuyển hướng sau 30 phút vùi dập con tàu.  Biển vẫn còn động mạnh, nhưng cơn nguy nan vì sóng gió gây ra đã giảm cường độ.  Bầu trời vẫn đậm đâc màu đen tang tóc thê lương! Mấy ai thấu hiểu được nỗi lòng  của người ra đi trong giờ phút nầy! Vẫn biết ra đi là đã chấp nhận tất cả rủi  ro. Nhưng mấy ai không ham sống sợ chết. Biển cả vốn vô tình,và hung hản! Nhưng  lòng người thì vô cảm và nham hiểm với đồng loại nhiều hơn. Trước khi rời giàn  khoang.Tôi có hỏi thời tiết quanh vùng. Được trả lời không biết, chắc rằng họ đã  biết có bão, nhưng không muốn ôm lấy “cục nợ” nên họ phó mặc cho chúng  tôi ra đi. Biển có vùi thây bằng ấy người trên con tàu mà họ đã thấy, cũng chẳng  làm họ nao lòng, vì họ có mặt nơi đây chỉ để tìm vàng đen, quý giá hơn là tìm  chúng tôi. Việc cột dây cho tôi leo xuống ở giàn khoang không tử tế gì. Nếu tôi  rơi xuống biển, ai là người sẽ điều khiển tàu đi khỏi vùng trách nhiệm của ho,ï  ác độc là chỗ đó!!
              Qua hải bàn cho thấy tàu đã chệch hướng  vì bão đã xô dạt khá xa. Thật may mắn, nếu không có báu vật nầy. Chắc tàu đã  trôi vào chốn vô định. 
             Phải mất mấy tiếng đồng hồ sau tàu mới vào  đúng hướng đi. Đến 6 giờ sáng, qua ống dòm tôi thấy xa xa có lấp lánh ánh đèn.  Mừng thầm trong bụng, vì biết rằng tàu sắp đến một hải đão hay vùng đất liền nào  đó của Mã-Lai.
              Bảy giờ sáng thì quang cảnh trong đất  liền hiện rõ dần. Khi tàu còn cách bờ 100m.Tôi cho tàu giảm tốc độ rồi dừng lại.  Để thăm dò bờ biển có địa thế nào hiểm trở hay không trước khi cho tàu đâm vào.  Tôi kêu gọi 4 thanh niên bơi giỏi tình nguyện bơi theo hình rẻ quạt vào bờ để  tìm xem có đá ngầm không? Được đáp ứng rất dễ thương cuả 4 em trai khoẻ mạnh.Sau  khi bơi vào bờ rồi bơi trở ra. Họ bảo với tôi: 
             -Tốt quá chú ơi! Bờ biển cát lài, không có  đá ngầm.
             Yên chí, tôi cho tàu tiến vào từ từ. Khi  độ sâu ngang đến bụng, tôi cho lệnh tất cả đàn ông và đàn bà trên tàu đều phải  rời tàu lội vào bờ (ngoại trừ những người quá yếu). Những người khỏe mạnh sẳn  sàng tiếp cứu đoàn người khi lội vào bờ. Ai cũng khoan khoái kêu lên:  
             - Mát quá chú ơi! Mát quá chú ơi  !
             Đúng vậy! Sau 4 ngày 5 đêm nằm bẹp dí  trong lòng tàu, nay được hít thở khí trời, lại tiếp xúc với nước, cộng với tâm  lý, chính họ được đích thân “đổ bộ”vào bờ của đất nước Tự-Do. (không phải  cuộc đỏ bộ đầy chết chóc như cuộc đổ bộ ở Normandie- Pháp, trong đệ nhị thế  chiến), thì bảo sao mà không sung sướng cho được?
              Khi mọi người đã vào trên bãi cát. Tàu  nhẹ hẳn lên. Tôi cho liệng hết vũ khí xuống biển để tránh thảm hoạ bị kết tội  “cướp biển hoặc tội xâm nhập một quốc gia có vũ khí”, và tống hết  ga cho tàu đâm vào bờ. Biết chắc tàu đã mắc cạn. Tôi tháo gở hải bàn, vật trân  qúy nhất bỏ vào túi vải đeo trước ngực, đồng thời cho lệnh phá hủy tàu bằng mọi  giá để tàu không còn xử dụng được nữa. Kinh nghiệm xương máu cho biết.Các nước  chủ nhà sẽ bắt thuyền nhân xuống tàu của mình, nếu tàu còn dùng được kéo ra  biển, chặt dây cho trôi để nhận cái chết thê thãm sau đó.!
              Bái tạ con tàu lần chót.Tuy là vật vô  tri,nhưng nhờ nó đã chịu thương, chịu khó ôm ấp, gồng mình, chống chọi với bão  tố phong ba, đưa chúng tôi qua đây. Tạ ơn người! Tạ ơn người!
              Trong khi mọi người nghỉ ngơi trên bãi  cát.Tôi tìm đến hướng có nhà để nhờ họ thông báo cho cảnh sát biết, có thuyền  nhân đến.Tôi tiếp xúc đuợc với mấy cụ già Mã-Lai đang tập thể dục buổi sáng.Vì  nơi đây là một trại dưỡng lão thuộc tiểu bang  Terranggganu.-Malaysia.
              Một giờ sau, cảnh sát đến. Việc đầu tiên  họ hỏi, chúng tôi từ đâu đến? Đến bằng cách nào? Có ai đưa đến không? Có bao  nhiêu người cùng đi? Đến đây thì họ cho đếm số người. Nam đứng riêng, Nữ đứng  riêng.Trẻ con trai gái cũng đứng riêng.Tổng cộng con số làm tôi choáng váng mặt  mày:149 người!
              Thật khiếp đảm! Thảo nào tàu trườn lướt  quá chậm.Tôi lại thầm cám ơn con tàu một lần nữa.Không ngờ, chỉ vỏn vẹn 14 thước  dài, máy 2 , nhưng lại cưu mang trọn vẹn chúng tôi thật đầy đủ bổn phận. Không  buồn phiền, không hờn giận, khi bắt nó “ôm”chúng tôi quá tải. Ai cấm được  nó “lắc mình” nhận chìm chúng tôi xuống biển làm mồi cho cá vì lòng tham  của con người quá độ?
             Toán cảnh sát báo cáo về đâu không biết.  Nửa tiếng sau. Hai chiếc xe nhà binh hùng hổ chạy tới. Khoảng 30 người mặc đồ  rằn ri, nhảy xuống.Tay lên cò súng nghe răn rắc trong tư thế chiến đấu (uy hiếp  tinh thần chúng tôi).Tôi bảo thầm trong bụng, trò nầy chẳng có gì hấp dẫn cả vì  tôi đã là một sĩ-quan từng chiến đấu ngoài chiến trường. Họ là cảnh sát biên  phòng có nhiệm vụ canh phòng bờ biển. Thế nhưng tàu tôi đã vào đến nơi mà họ  không biết, đẹp đẽ gì với trò “xáo súng uy hiếp nầy nữa”.
              Họ dàng đội hình bao vây chúng tôi vào  giưã.Người chỉ huy lớn tiếng quát hỏi:
             - Tài coon, tài coon? (tài công - tài  công) đâu ? Tôi đưa tay trả lời:
              - Tôi đây! Tôi đây!
             Người chỉ huy cũng lập lại những câu hỏi  như trước. Đích thân đếm lại số người. Rồi ông ta đưa tôi xuống chỗ tàu đang  nằm, đo đạt, tính toán sao đó. Cuối cùng ông hỏi tôi:
              - Có mấy chiếc tàu qua đây? 
             Tôi bảo:
 - Một chiếc.
 Ông bảo:
    - Một chiếc làm sao chở được 149 người.
 Tôi bảo:
 - Nếu ông không tin, xin cứ hỏi mọi người trên tàu (vì  trước đó đã có tàu đánh cá quốc doanh Việt-Nam chở người qua đổ bên đảo rồi quay  về). Họ nhìn tàu thật kỷ, chụp hình những lổ thủng mà chúng tôi đã đập phá. Rồi  quay qua hỏi tôi:
 - Tại sao đập phá tàu?
 Tôi bảo:
 - Tàu bị va chạp mạnh khi vào nên bể.
             Có hai sự việc: nếu tàu còn tốt. Họ có thể  bắt chúng tôi xuống và đẩy ra biển. Hoặc kéo tàu bán lại cho ngư phủ Mã-Lai lấy  tiền. Nhưng trước sự việc đã rồi, họ đành quay trở lên bờ, lấy dây thừng quấn  quanh các cây thông thành một vòng tròn giử chúng tôi ở giữa,chỉ chừa hai lối ra  hai bên. Nam, Nữ ,và bắt đầu lục soát để tìm vàng, dollars của thuyền  nhân.
             Từng người một, họ chải tóc, lận lưng, bẻ  cong dép, há miệng, (họ đã có kinh nghiệm nầy lâu năm trong nghề). Tiền Việt-nam  còn lại bỏ vào một ”xô”, thuốc tây một ”xô” đồ ăn một ”xô”.  Riêng dollar và vàng được cầm trong tay họ. Tôi cũng bị qua cửa ải nầy, nhưng  được chiêu cố nhiều hơn, vì tôi là “tài công”,  họ tưởng tôi là chủ tàu  có nhiều vàng! Họ tìm không chừa một chổ nào trong người: -chải tóc,há miệng lật  lưỡi lên xuống nhiều lần cho họ xem,nịt lưng được tháo tung làm hai mảnh. Miếng  vải băng vết thưong nơi tay vì bão gây nên cũng bị gở xuống. Chỉ còn một chiêu  sau cùng mà công-an VN chưa dạy họ là: dùng ngón tay trỏ thọc vào hậu môn ngoáy,  để tìm vàng trông bỉ ổi và ghê tỡm nữa mà thôi.... Thế nhưng, điều lạ lùng, khó  hiểu là chiếc hãi bàn trong túi vải, tôi vẫn đeo trước ngực họ không hề đụng  tới.
             Chiếc hãi bàn, cao 20cm. Nặng 1.5kg. To  bằng tô canh chứ đâu nhỏ nhoi gì. Vật nầy cũng trị giá bằng vàng, bằng dollar,  phải lùng mua mới có chứ không dễ. Quả là có phép lạ che mắt họ vậy!
             Xong phần khám xét. Có lệnh, sắp hàng hai,  lần lược lên 3 xe bus để về trại tạm trú Marrang.
             Nhập gia tùy tục. Lại bị khám xét trước  khi vào trại. Chiếc hãi bàn vẫn không bị đụng tới, thoát nạn trong kỳ diệu khó  tả!
             Bốn ngày ở trại. Tôi phải theo làm thông  dịch bất đắc dĩ cho 2 bệnh nhân của tàu. Một người nuốt vàng vào bụng trên đường  đi cho chắc ăn. Bị bón, bụng căng cứng phải đi mổ. Theo nguyên tắc, bệnh viện  lấy khâu vàng 3 chỉ để làm tang chứng.Thế là tiền mất tật mang, kêu đau không  thấu trời! Ngưòi bệnh thứ hai là một cô gái sinh viên đại học Cần-Thơ, vượt biên  với mẹ. Đề phòng hãi tặc tấn công. Cô ta mặc một lần 3 quần”sịp” cho bảo  đãm! Chẳng may ngồi gần ống “bô”dưới tàu bị phỏng nặng sau mông phải chửa trị.  Xem ra cách phòng chống kiểu nầy có phần ngây ngô tội nghiệp!
              Ngày xưa, khi các quan ra trận,bà vợ ở  nhà bị khoá chặt bởi giáp sắt chưa chắc đã an toàn! xá gì với mấy miếng vải mỏng  đó đối với bọn hãi tặc.
             Bốn ngày trôi qua. Chúng tôi lần lược  xuống tàu sắt (tàu chuyên chở thực phẩm và nước uống) ra đảo Pulau bidong,hòn  đảo quá nhỏ nằm ngoài khơi thuộc hãi phận tiểu bang Terrangganu. Cách đất liền 2  giờ tàu chạy. Nơi đây biệt giử thuyền nhân Việt-Nam bỏ nước ra đi sau  1975.
 Điều buồn cười là mỗi người được phát một phao cấp cứu  theo luật đưòng biển. Chả bù với con tàu của tôi. Với 149 người. Nhưng chỉ có  một chiếc phao ruột xe hơi để trên nóc. Ai là người sẽ được sống khi tàu gặp  nạn? May thay! phao nầy đã bị bão thổi bay để mọi ngưòi cùng chết chung với nhau  cho trọn tình, trọn nghiã!
             Thiếp đi trong giấc ngủ, hai giờ sau tàu  đến đảo Pulau Bidong. Bước chân lên cầu tàu Jetty (cửa ngỏ vào đảo) Đồng bào hay  tin, tràn xuống bờ để tìm người thân, nhưng bị hàng rào an-ninh ngăn chận tiếp  xúc. Chúng tôi được đưa lên đồn cảnh sát của đảo để tái diển màng lục soát. Toàn  thân đều được tìm kiếm cẩn thận. Chiếc hãi bàn tôi vẫn đeo cố hửu trước ngực.  Thế nhưng. Một lần nữa nó vẫn không bị làm phiền!  không hề bị đụng đến. Tổng  cộng sau 3 lần khám xét, ba loại cảnh sát khác nhau, ba nơi khám khác nhau không  nương tay. Nhưng nó vẩn theo bám sát lấy tôi cho đến giờ chót vào trại an toàn.  Tôi tự hỏi có phải tự thân chiếc hãi bàn đã có điều huyền diệu lạ lùng nào đó  tõa ra che mắt người lục soát hay không?
             Khi ổn định chổ ở tại longhouse xong. Tôi  tìm hốc đá gần nhà chôn dấu hãi bàn cho an toàn, dấu trong nhà dể bị tịch thu  khi bị xét. Hơn một năm sau, có cha Hank người Mỹ ra vào đão thường xuyên để làm  công tác xã-hội. Lúc đó tôi làm trưởng trại. Một dịp tôi đề cập đến chuyện hãi  bàn của tôi. Cha Hank bảo tôi đưa cha đem về Mỹ giử hộ, nếu sau nầy được định cư  ở Mỹ cha sẽ trao lại. Một cơ hội bằng vàng cho hãi bàn thoát nạn tìm đường  “định cư” trước.Tôi thầm hẹn với nó sẽ gặp lại sau. Nhưng ưóc hẹn nầy có  vẻ mong manh!
             Cha Hank về nghỉ phép ở Washington DC,  mang theo hãi bàn từ năm 1991. Tôi vẫn còn kẹt lại, vì tình hình ở đão lúc nầy  quá ư phức tạp... Một cơn bão thanh lọc còn khốc liệt hơn là những cơn bão biển  ngoài đại dương... Tôi lao vào các cuộc tranh đấu để đòi quyền được tỵ nạn cho  đồng bào.
             Một biến cố xãy ra, như giọt nước tràn ly.  Ngày 25/11/1990. Thuyền nhân Lâm văn Hoàng MC 381 lao mình xuống biển chết vì  lời bội ước của Cao-ủy.Trước đó,gia đình cuả Hoàng bị cướp biển tấn công, tàu bể  nát. Mọi người rơi xuống biển chết hết. Lâm văn Hoàng may mắn vớ được tấm ván ôm  trôi dạt mấy ngày đêm. Được tàu dầu vớt đưa vào đão. Cao-ủy hứa sẽ cho định cư  miển thanh lọc. Thế nhưng sau đó Lâm văn Hoàng vẩn bị thanh lọc, và tệ hại hơn  nữa còn bị đánh rớt! Quẩn bách trong đường cùng. Lâm văn Hoàng đành trầm mình  xuống biển tìm cái chết cho trọn vẹn với gia đình.
             Lấy cớ nầy. Tôi cầm đầu cuộc tranh đấu  sống còn với cao-ủy và Mã-Lai. Hơn 17,000 người sôi sục hưỏng ứng xuống đường  biểu tình, tõ bày thái độ phản kháng sự bất công của Cao-ủy và  Mã-Lai.
             Sau ba ngày làm chủ tình hình trên đảo.  Cao-ủy và cảnh sát sợ bị bắt làm con tin đã xuống tàu vào đất liền. Xác của Lâm  văn Hoàng vẫn còn quàng trước bệnh xá (sick bay) chờ đợi... Sau đó Cao-ủy cử đại  diện ra điều đình. Họ cho biết: Bên tranh đấu cần gì? Chúng tôi đưa ra ba thỉnh  nguyện:
             1- Xin thanh lọc công bằng.
             2- Xin cho nạn nhân bị hãi tặc hãm hiếp  được đương nhiên định cư khỏi thanh lọc. (có 12 nạn nhân).
             3- Không cưởng bách hồi hương, chỉ hồi  hương tự nguyện.
             Vị đại diện hứa sẽ cứu xét giải quyết, và  yêu cầu bên tranh đấu làm lể an táng Lâm văn Hoàng vì lý do vệ sinh của  đảo.
 Một buổi lễ tiển linh thật trọng thể, có sự hiện diện  đầy dủ của các tôn giáo, các đoàn thể, kèm theo hàng chục tràng hoa rừng kết lại  thật đẹp mắt. Cùng đưa tiển có Cao-ủy, có cảnh sát (họ đã trở lại sau khi đã  nhận thỉnh nguyện thư) và hàng ngàn đồng bào theo sau sụt sụi thương cảm cho  người xấu số thật cảm động!
             Một tháng sau khi chôn cất Lâm văn Hoàng  xong. Năm giờ chiều. Tôi có lệnh trình diện đồn cảnh sát và được thông báo:  
 -Năm giờ sáng hôm sau phải có mặt tại câù tàu Jetty để  qua đất liền thăm thân nhân.
 -Tôi bảo.:
    Tôi không có ai ở nước ngoài, làm sao có người đến  thăm? Vị chỉ huy cảnh sát(phe tỵ nạn thường gọi là Đại-tá) tiếp:
             - Không có thì qua chơi!!?
 -Tôi bảo:
             Tại sao tôi được ưu tiên này?
             -Thì cứ đi rồi sẽ biết! Hoá ra tôi bị bắt,  bị cô lập vì tội cầm đầu cuộc tranh đấu vừa qua.
             Chuyện còn dài, bài khác tôi sẽ có dịp đề  cập. Một chuổi ngày đen tối diển ra sau nầy. Mổ bụng, tự thiêu, đánh đập, vùi  dập, không nương tay trước sự ngó lơ gần như đồng thuận của Cao-ủy LHQ. Thật tội  tình cho kiếp đời tỵ-nạn tha phương rong rủi trên xứ người!!
             Trở lại với chiếc hãi bàn đã theo Cha Hank  về Mỹ từ năm 1991. Tôi mất liên lạc từ đó. Mãi đến tháng 3 năm 1993 tôi mới đến  Mỹ. Như có điềm lành báo trước. Nếu chiếc hãi bàn tôi không gởi theo cha Hank đi  sớm thì qua biến cố tranh đấu. Tôi bị bắt rời đão đột ngột chiếc hãi bàn sẽ bị  mất, vì luật ở đão:
 -Vào xét, ra xét, có ai muốn mang lụy vào thân để giúp  tôi mang đi sau nầy?!
             Vài năm sau khi cuộc sống có phần ổn định.  Tôi mới dò tìm tin tức cha Hank. Người thì bảo cha Hank đã nghỉ hưu. người thì  quả quyết bảo cha Hank đang làm công tác xã-hội ở Việt-Nam. Nếu cha ở Việt-Nam  thì hy vọng tìm được cha khá cao. Vì qua những thuyền nhân bị cưởng bức trở về  sau nầy có người đã quen thân với cha, nhờ họ có thể tìm được.
             Song, chuyện đời có lắm bất ngờ lý thú!  Năm 2007. Người cho tôi tin tức về cha Hank là anh LâmVi Bắc ở California (Mỹ).  Cha Hank mỗi lần từ Việt-Nam về Mỹ đều có ghé lại thăm nhà anh,vì anh là cựu  nhân viên xã-hội của cha Hank khi còn ở đão Pulau bidong Mã-Lai, tình thân thiết  giửa cha và anh rất gắn bó. Tôi nhờ anh làm trung gian chuyển lời thỉnh cầu của  tôi muốn nhận lại chiếc hãi bàn mà tôi đã nhờ cha cất giử hộ từ năm 1991. Đây  chỉ là chuyện mơ ước vô vọng, vì đã trải qua 19 năm trời! Một thời gian khá dài  với bao vật đổi sao dời, chuyện cỏn con nầy mấy ai còn tha thiết nghĩ  đến.
             Thế nhưng. Lại một bất ngờ kỳ thú khác xãy  ra. Ngày 12/03/2010. Tôi nhận được một gói hàng UPS, có dấu bưu-điện gởi từ  Washington DC xuống, có địa chỉ, với nét bút quen thuộc của cha Hank viết ngoài  thùng hàng. Mở quà ra! Nâng chiếc hãi bàn lên khỏi hộp! Tôi lặng người vì bồi  hồi xúc động! Đúng là vật kỷ niệm mà tôi hằng mong đợi, đã rong chơi suốt 19 năm  nay mới chịu quay về với cố chủ! Hình hài và “nhan sắc” của hãi bàn vẫn  không thay đổi. Vẫn màu Olive tươi mát cố hửu trên mặt,vẫn thân hình tròn trịa  như xưa,dù đã 19 năm trôi qua, nhưng “Em” không hề ốm-o gầy mòn chút nào.  “Em quả là gái trời cho đẹp”!
             Thoáng chốc, dòng quá khứ hiện về rõ nét  trong tôi. Ngày ra đi 1989. tính đến 2010 là 21 năm. Ngày ấy. Tôi chỉ bất chợt  gặp “em” dưới tàu. Thế nhưng, như định mệnh an bài. “Em” và tôi  sau đó khắn khít bên nhau suốt cuộc hành trình đầy gian nan, vất vã. Có lúc tim  tôi và tim “em” cùng đập một nhịp để tìm sự sống. Trong cơn bão tố, tôi  càng ôm ghì lấy “em” nhiều hơn nữa, vì nếu nhỡ để “em” vụt khỏi  vòng tay rơi vào lòng biển thì,ai sẽ cứu tôi tìm được hướng đi đến bến bờ?!...  Công ơn “em” kể sao cho xiết,nay chỉ biết dành cho “em” đôi điều  thô thiển nầy, vinh danh “em” cảm tạ “em” dù có muộn  màng...
             Đón “em” về lần nầy. Tôi dành cho  “em” một nơi trang trọng nhất trong nhà để sớm hôm vào ra nhìn  “em” với lòng ngưởng phục. Tôi không biết “em” đã có phép mầu gì  để thoát hiểm sau ba lần bị lục soát không nương tay cuả cảnh sát Mã-Lai, để  ngày nay cùng có mặt tỵ nạn với tôi ở Mỹ.
             Chỉ có “em” mới trả lời được câu  hỏi về sự kỳ diệu nầy mà thôi!
Thuyền Nhân NGÔ VĂN  THU 
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét