Song song đó, tại miền Nam, Việt cộng chủ trương khủng bố dân lành để phô trương  thanh thế, gây hoảng loạn xã hội và phân tán sức chiến đấu của binh sĩ VNCH. Vụ  việc thì có hàng ngàn, không thể gom hết vào vài trang giấy, nhưng danh sách một  số vụ điển hình vẫn còn có thể tìm thấy trên một số trang mạng. Ngoài những vụ  ám sát đặt mìn lẻ tẻ để giết những chính khách, trí thức, nhà báo, thương gia  nổi tiếng (như vụ Giáo sư Nguyễn Văn Bông kể trên vào ngày 10-11-1971 và vụ ký  giả Từ Chung của báo Chính Luận ngày 30-12-1965), thì phải kể đến một số vụ nổi  bật về tính chất tàn ác được báo chí trong và ngoài nước nhắc đến một thời như  vụ đánh bom nhà hàng nổi Mỹ Cảnh ở Sài Gòn (6-1965, 40 người thiệt mạng và 40  người bị thương); vụ đặt bom sân vận động Cộng Hòa, Sài Gòn (10-1965, 11 thường  dân thiệt mạng, 42 bị thương); vụ thảm sát đồng bào Thượng tại Dak Sơn, Dak Lak  (12-1967, 252 người chết); vụ thảm sát dân lành Tết Mậu Thân tại Huế (2-1968,  5000 người); vụ thảm sát tại sân vận động Quy Nhơn (1-1972, 14 học sinh); vụ  pháo kích trường tiểu học Cai Lậy, Định Tường (3-1974, 34 học sinh chết, hơn 70  em bị
thương). Ghê gớm hơn nữa là nhờ “óc sáng tạo cao độ” trong công tác “giết  địch” (đỉnh cao trí tuệ mà!), những tên khủng bố VC đã nghĩ ra cách đánh bom kép  để giết thêm đợt 2 khi nhân viên y tế, cảnh sát đến hiện trường cứu người, như  trường hợp tại rạp hát Trưng Vương, Quy Nhơn và nhà hàng nổi Mỹ Cảnh…  Thế nên  một cựu quân nhân Mỹ từng tham chiến tại Việt Nam, ông Bill Laurie, khi đem so  sánh thời gian và tính chất giết người của khủng bố VC với khủng bố Al-Qaeda, đã  thốt lên rằng “VC chính là sư tổ của bọn khủng bố” (“mother of all  terrorism!”).
Nhưng chiến tranh xong, CS vẫn tiếp tục chính sách khủng  bố của mình bằng nhiều kiểu khác: bằng “trại cải tạo” (trên 150 trại) dành cho  gần một triệu quân cán chính VNCH bị lừa đi “học tập” (trong đó có khoảng 1/10  bỏ thây vì bị hành quyết, trúng bom mìn hay lâm bệnh tật); bằng “khu kinh tế  mới” dành cho hàng triệu thị dân bị đuổi khỏi căn nhà êm ấm hay xưởng quán ăn ra  làm được của họ, để đến những nơi khỉ ho cò gáy, nước độc rừng thiêng; bằng  “cách mạng xã hội” khiến cho cả mấy triệu người đành bỏ nước ra đi vì không thể  chịu nổi nhất là về mặt tinh thần, dù phải băng rừng vượt suối, phơi thây trên  biển cả, tan nát cuộc đời trên vịnh Thái Lan; bằng “xuất khẩu công nhân, phát  triển công nghiệp” nhằm bán rẻ sức lao động và cả nhân phẩm của hàng triệu thanh  niên nam nữ cho các xí nghiệp trong nước, các công ty ngoài nước, với sự hỗ trợ  của luật cấm đình công, của công đoàn bênh đảng, của các tòa đại sứ chỉ biết hăm  dọa người lao động; bằng “vùng quy hoạch, khu chế xuất” nhằm tước đoạt đất đai  ruộng vườn của hàng chục triệu nông dân hay lâm dân, khiến họ phải vất vưởng đầu  đường xó chợ, phải tìm đường lánh nạn qua lân bang, hay phải nổi dậy đòi quyền  sống để rồi bị đàn áp thẳng tay bằng súng đạn (như tại Tây Nguyên năm 2001, 2004 và tại  huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên trong những ngày này).
 
Chính sách khủng bố nông dân và lâm dân này được hỗ trợ bằng một công cụ pháp  luật là “Siêu Luật đất đai 2003”, nguyên nhân chính của tình trạng khiếu kiện  liên tục, gay gắt, quyết liệt, chết người suốt bao năm qua mà chưa có điểm dừng.  Theo tài liệu của Thanh tra Chính phủ, trong 5 năm (2006–2010) đã có 1.574.750  lượt người đi khiếu kiện: có 1.515 đoàn đông người, có đoàn đông tới 600 người.  Họ mang theo cờ xí, khẩu hiệu đến ngăn cản nơi giải phóng mặt bằng, bao vây trụ  sở tiếp dân của Quốc hội để tỏ rõ thái độ phản đối quyết liệt đối với chính sách  đất đai. Cuộc đấu tranh khiếu kiện ấy hết sức gian khổ, tốn công, tốn của, bị  xua đuổi, bị giam cầm, bị đánh trọng thương, kể cả bị vong mạng. Trong 5 năm,  nhà cầm quyền CS đã giải toả thu hồi đất 500.000 ha đất đai, đẩy 2 triệu 60 vạn  dân khỏi nơi chôn nhau cắt rốn, 87,5% người bị thu hồi đất đều bị giảm thu nhập,  nhiều kẻ không có nơi định cư, màn trời chiếu đất. Nhiều khu vực định cư cũng là  cuộc sống đầy đọa, nhà cửa chật chội, không điện nước, không đất canh tác, không  nhà vệ sinh, chết chẳng có chỗ chôn… nợ nần chồng chất, gia đình lục đục, tệ nạn  xã hội phát triển, con cái không được chăm sóc giáo dục. (Theo dân oan khiếu  kiện Bùi Như Thủy). Đúng là một kiểu khủng bố trường kỳ!
 
Đối với những ai can đảm đứng lên đòi quyền lợi, công lý, tự do cho mình và  cho đồng bào, đòi dân chủ cho xã hội, đòi vẹn toàn lãnh thổ cho tổ quốc, thì CS  khủng bố bằng chính Hiến pháp, thông qua điều 4, bằng Luật hình sự, thông qua  điều 79, 87 và 88, bằng công cụ chuyên chính, thông qua lực lượng công an, an  ninh dày đặc để sách nhiễu, quản chế, cầm tù và thủ tiêu nếu cần. Cả hàng trăm  trí thức yêu nước, dân chủ đối kháng, dân oan đấu tranh đang bị những bản án  nặng nề, hay ít nhất bị bức bách, hăm dọa, quấy rối cuộc sống, bị ép buộc phủ  nhận việc làm của họ. Điển hình gần đây là Luật sư Hà Vũ, là thi sĩ Bùi Chát, là  sinh viên Nguyễn Anh Tuấn, là mấy ngàn trí thức ký vào kiến nghị trả tự do cho  Ts họ Cù…
 
Lực lượng tôn giáo cũng không khỏi bị khủng bố. Ngoài những lãnh đạo tinh  thần hay tín đồ giáo hữu đấu tranh cho tự do độc lập của Giáo hội đang bị cầm  tù, bị quản thúc, bị tống khỏi nhiệm sở, thì còn có vô số lãnh đạo tinh thần  khác bị khống chế, bị bắt buộc phải làm những điều trái lương tâm hay trái giáo  luật. Cụ thể như phải dung túng những thành phần biến chất, thỏa hiệp, hay thậm  chí là đảng viên ngầm trong lòng giáo hội, tại những chức vụ quan trọng. Như  phải để cho một số chức sắc tham dự trò hề ngày 22-05-2011 sắp tới là ứng cử hội đồng  nhân dân toàn quốc, tỉnh thành, quận huyện dù trái luật đạo, dù biết sẽ chỉ trở  thành gia nô, dù quá rõ sự chống đối chính đáng, sáng suốt và can đảm của đại đa  số tín đồ.
 
Quả thật, Cộng sản không bao giờ ngưng là lực lượng khủng bố, không bao giờ  muốn chịu thua ai về thành tích khủng bố và không bao giờ thôi tìm những phương  cách khủng bố ngày càng tinh vi và thâm hiểm. Bởi nó là một chế độ cực quyền,  độc tài, toàn trị, mất hết tính người và tình người.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét